Jerusalem – vùng đất thiêng, cội nguồn xung đột Palestine - Israel
Jerusalem là vùng đất thiêng, lâu đời bậc nhất thế giới với sự hội tụ của 3 tôn giáo lớn Hồi giáo, Thiên chúa và Do Thái. Đây cũng là cội nguồn xung đột của chảo lửa Trung Đông nhiều thập kỷ qua.
Ngày 6/12 (giờ Mỹ), Tổng thống Donald Trump chính thức công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel và giao Bộ Ngoại giao Mỹ chuẩn bị cho việc di dời đại sứ quán Mỹ từ Tel Aviv đến Jerusalem.
Với quyết định này, ông Trump không chỉ phá vỡ chính sách hàng thập kỷ qua của Mỹ tại Trung Đông mà còn nguy cơ châm ngòi khủng hoảng và làn sóng bạo lực mới ở chảo lửa này.
Thành phố linh thiêng Jerusalem |
Tại sao vùng lãnh thổ Jerusalem lại “nhạy cảm” đến vậy và vùng đất này có tầm ảnh hưởng thế nào đến tiến trình hòa bình Trung Đông?
Vùng đất thánh thiêng liêng
Jerusalem được biết đến là vùng đất thiêng liêng, lâu đời bậc nhất thế giới với sự hội tụ của 3 tôn giáo lớn là Hồi giáo, Thiên chúa và Do Thái.
Thành cổ Trung Đông này nằm trên đỉnh của một cao nguyên, bên lưu vực sông giữa Địa Trung Hải và Biển Chết trên độ cao 650-840m, và được bao bọc bởi những phiến đá khổng lồ màu xám.
Khác với những thành phố hiện đại, nhộn nhịp tại Israel, Jerusalem được coi là ngã ba gặp gỡ của các nền văn hóa chịu ảnh hưởng của Hồi giáo, Thiên Chúa giáo và đạo Do Thái giáo. Ngay bản thân cái tên Jerusalem cũng là sự cộng hưởng của tên gọi 3 chính đạo lớn nêu trên.
Thành lập từ khoảng thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên, Jerusalem đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, với hai lần bị tàn phá, hàng chục lần bị vây hãm, tấn công, xâm chiếm và tái thiết. Người ta nói trong mỗi lớp đất của Jerusalem đều ẩn chứa những phần khác nhau của lịch sử.
Ở trung tâm Jerusalem là Khu phố Cổ, một mê cung những con ngõ nhỏ với những nét kiến trúc cổ lâu đời. Trong thành có 4 khu vực gọi là 4 quảng trường: khu Người Do Thái, khu Thiên chúa giáo, khu Hồi giáo, và Khu người Armenia được bao bọc bởi những bức tường đá.
Trong khu vực Thiên chúa giáo có nhà thờ Mộ Chúa Jesus, một trong những nhà thờ cổ xưa nhất thế giới. Đây là nơi mọi tín đồ Thiên chúa giáo trên thế giới đều hướng về. Theo kinh Tân Ước, Jerusalem chính là nơi Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá. Nơi đây được tôn sùng là đồi Golgotha hay đồi Calvary, là nơi Chúa Jesus được mai táng và cũng là nơi Chúa được phục sinh trong 3 ngày.
Hiện nhà thờ này nằm dưới sự quản lý chung bởi đại diện của các nhánh trong Thiên Chúa giáo, bao gồm Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp ở Jerusalem, Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương và Giáo hội Công giáo Roma.
Hàng năm, hàng triệu tín đồ Thiên Chúa giáo hành hương về Jerusalem để thăm nhà thờ Mộ Chúa Jesus và cầu nguyện.
Quảng trường Hồi giáo là khu vực lớn nhất trong 4 quảng trường tại Jerusalem. Nơi đây có đền thờ Mái vòm Dome of Rock và nhà thờ Hồi giáo al-Aqsa. Đây là nhà thờ Hồi giáo linh thiêng thứ ba và nằm dưới sự quản lý của Waqf - cơ quan thẩm quyền Hồi giáo của Jordan, quản lý các hoạt động tôn giáo tại Jerusalem.
Các tín đồ Hồi giáo tin rằng nhà tiên tri Muhammad đã đi từ thánh địa Mecca tới đây và cầu nguyện cho những linh hồn của tất cả những nhà tiên tri. Cách đó không xa, đền thờ Mái vòm Dome of Rock được cho là nơi nhà tiên tri Muhammad đã bay lên thiêng đàng trên con ngựa có cánh.
Các tín đồ Hồi giáo thường tới thăm Jerusalem quanh năm, nhưng tháng lễ Ramadan là thời điểm mà hàng trăm nghìn tín đồ Hồi giáo đổ về đây cầu nguyện.
Quảng trường Do Thái nổi tiếng với Bức tường phía Tây hay còn gọi là "Bức tường Than khóc", là nơi linh thiêng của người Do Thái. Đây là phần còn lại của bức tường cổ bao quanh đền thờ Do Thái, nằm ở phía tây Núi Đền (Temple Mount) ở thành phố cổ Jerusalem. Trong đền này là điện thờ - nơi linh thiêng nhất đối với các tín đồ Do Thái.
Bức tường than khóc |
Người ta tin rằng nếu viết một lời cầu nguyện trên mảnh giấy và đặt mảnh giấy trong khe nào đó của bức tường thì lời cầu nguyện sẽ thành hiện thực. Các tín đồ Do Thái thì tin rằng đây là nơi Abraham vâng theo lệnh của Thiên Chúa, dâng con trai mình là Isaac làm sinh tế.
Hàng năm Bức tường phía Tây đón hàng triệu khách tham quan. Tín đồ Do Thái từ khắp nơi trên thế giới về đây để cầu nguyện và kết nối với một phần di sản của họ.
Cội nguồn xung đột Israel – Palestine
Cách đây 100 năm, vào tháng 12/1917, tướng Anh Edmund Allenby nắm quyền kiểm soát Jerusalem. Vài thập kỷ sau, vùng đất thiêng chứng kiến làn sóng người Do Thái định cư ở đây với tư tưởng Jerusalem là quê nhà, trong khi người Arab địa phương giảm xuống theo sự sụp đổ của đế chế Ottoman, vốn cai trị nơi này từ năm 1517.
Làn sóng di cư hiển nhiên vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của người Palestine. Họ thậm chí gây ra một số cuộc bạo động nghiêm trọng. Trong khi đó, người Do Thái lại bất chấp nhà cầm quyền Anh và lệnh hạn chế nhập cư đã được ban hành vào năm 1939. Nhiều người cho rằng quyết định của người Anh khiến nhiều người Do Thái không kịp chạy trốn khỏi cuộc diệt chủng của Đức Quốc xã.
Cho tới giai đoạn sau Thế chiến II, vào năm 1947, 2 năm sau khi Liên Hợp Quốc ra đời, tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới đã thông qua kế hoạch phân chia cho 2 nhà nước - một Do Thái, một Arab - với Jerusalem được quản lý bởi "chế độ quốc tế đặc biệt" do tình trạng độc nhất của nó.
Vào ngày 14-5-1948, nhà lãnh đạo David Ben-Gurion đã đọc Tuyên ngôn Độc lập của Israel tại Tel Aviv. Tuy nhiên, kế hoạch phân chia lại bị người Arab - Hồi giáo bác bỏ gay gắt. Một ngày sau khi Israel tuyên bố độc lập, khối các nước Arab tấn công Israel non trẻ nhưng đã thất bại thảm hại. Trong khi người Do Thái gọi là Chiến tranh giành độc lập và Chiến tranh giải phóng, thì người Palestine gọi cuộc chiến là cuộc "Thảm họa".
Đây là trận chiến mở màn cho xung đột hàng thập kỷ qua tại Trung Đông, sau sự kiện này, rất nhiều người Arab và Do Thái đã phải di dời chỗ ở. Jerusalem bị chia cắt: nửa phía Tây trở thành một phần của nhà nước Israel và tới năm 1950 trở thành thủ đô theo luật do Israel thông qua, trong khi nửa phía Đông, bao gồm cả thành cổ, do Jordan quản lý.
Cho tới năm 1967, quyền quản lý gần như toàn bộ "vùng đất thiêng" đã rơi về tay chính quyền Israel sau chiến tranh Trung Đông giữa Israel và thế giới Arab trong cuộc chiến 6 ngày. Kể từ đó, Israel xem cả thành phố này là thủ đô không thể chia tách của họ.
Người Palestine phải di chuyển xa hơn nữa về phía cực Đông của vùng đất này. Palestine sau đó tuyên bố Đông Jerusalem chính là thủ đô của nhà nước tương lai. Trong tháng 11 năm 1967, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 242, kêu gọi Israel rút "từ vùng lãnh thổ bị chiếm đóng trong cuộc xung đột gần đây".
Bất chấp Nghị quyết của Liên Hợp Quốc, Năm 1980, Tel Aviv thông qua Luật Jerusalem, trong đó tuyên bố rằng "Jerusalem, đầy đủ và thống nhất, là thủ đô của Israel", do đó chính thức hóa thôn tính đơn phương của Israel.
Jerusalem sau đó chứng kiến hàng loạt cuộc đụng độ giữa người Palestine và người Israel ở nhiều quy mô khác nhau: từ ném đá, đấu súng, hay thậm chí là những vụ đánh bom liều chết.
Mặc dù chủ quyền của Israel với Jerusalem vẫn chưa bao giờ được cộng đồng quốc tế thừa nhận, song với lực lượng quân đội mạnh hơn hẳn, Israel vẫn duy trì quyền kiểm soát khu vực "thiêng liêng" này.
Đỉnh điểm, vào năm 2000, chuyến thăm nhà thờ Hồi giáo al-Aqsa ở thành cổ Jerusalem của Thủ tướng Israel đương nhiệm đã làm phật lòng người Palestine và gây ra cuộc xung đột bạo lực kéo dài 5 năm, lấy đi mạng sống của khoảng 3.000 người Palestine và 1.000 người Israel.
Trong suốt nhiều thập kỷ qua, các nỗ lực kiến tạo hòa bình tại khu vực này được cộng đồng quốc tế rất chú trọng. Mặc dù vậy, bất chấp thực tế rằng tất cả các khu định cư ở Jerusalem là bất hợp pháp, người Israel vẫn xây dựng nhiều nhà ở trên vùng đất người Palestine coi như là nhà nước tương lai của họ./.
PV