Không gian và hồn cốt Tày trong thơ Mai Liễu (phần II)
Ông từng làm Chuyên viên Ban Dân tộc Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Tuyên và Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Tuyên Quang, Tổng Biên tập báo Tân Trào, Phó Tổng Biên tập thường trực Tạp chí Văn hóa các dân tộc Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam,
Nhà thơ Mai Liễu, Hà Quang Dự và nhà báo Phí Văn Tường |
Ông còn là Ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam khóa III, IV, V... Nghĩa là ông cũng có tý chức sắc, nhưng chức sắc đâu có làm nên thương hiệu một con người, mà những bài viết, những tập thơ ông để lại cho đời mới làm nên danh hiệu cho ông, Mai Liễu - một nhà thơ.
Tôi không phải là người làm phê bình, mà cảm nhận thơ cũng chẳng hơn ai, chỉ đọc và ngẫm ngợi một mình, nên có thể có những suy nghĩ chưa chính xác. Nhưng không sao, có thế nào nói thế, không xúc phạm nhau, không khen nịnh nọt nhau là được. Hà! chẳng lẽ hai ông già về hưu tâng bốc nhau.
"Quả còn tua đỏ tua xanh/ tốp người tung lên/ tốp người đón lấy/ ném lên quả còn cầu may/ đón lấy quả còn cầu lộc/ bao cặp mắt cầu vồng dõi lên trời/ đau đáu cầu tài cầu phúc/ Hai cặp mắt tình tứ trông nhau/ quả còn trên tay mê ngủ/ chả nhớ mình đeo tua đỏ tua xanh...” (Tung còn).
Nếu bạn không phải người Tày, người Nùng, chưa bao giờ dự hội Lồng tông (xuống đồng) bạn sẽ chẳng vấn vương đâu, nhưng với người miền núi, đây là dịp hội ngộ, dịp giao lưu, dịp gửi gắm, dịp làm quen, dịp tỏ tình… Báo, shao (trai gái) đến đây tìm nhau, khoe sắc, khoe tài cứ là lúng liếng, phơi phới với mùa xuân. Phía sau những quả còn tua đỏ, tua xanh kia là ước mơ, là tình yêu, là khát vọng.
"Tiếng hoãng kêu thảng thốt đồi nương/Con đường mòn hoa bìm buông tím nụ/Em đi cấy gặp ngày mưa lũ/Qua ngòi ai dắt nước lên..." (Bên thác).
Mấy câu thơ đọc qua tưởng bình thường, nhưng chứa đựng nhiều nỗi niềm, tâm tư, mà cách nói như thế này chỉ có ở vùng quê miền núi chúng tôi. Mà trông hiền thế thôi, nhưng những bài thơ về thế sự của ông cũng khá thâm sâu. "Chim khướu ăn quả dáy chín đỏ/ tiếng hót vang/ chim họa mi ăn quả cà đưa chín vàng/ tiếng hót trong... Chim cắt rình bắt họa mi/ diều hâu rình bắt khướu/ chẳng ai nghe thấy chúng hót bao giờ...". (Quả và chim)
Đặc biệt hình ảnh người mẹ trong thơ Mai Liễu thật ấn tượng. Suốt tháng năm quần quật với ruộng nương, một đời hy sinh vì con cái, “Mẹ vừa gọi vừa khóc/Khi đi tìm vía cho con.../Mẹ còm cõi như quê nghèo ven núi/Sớm tối ra vào góc bếp lui cui... (Gọi vía).
Thế hệ chúng tôi dập dìu bạn bè và súng đạn với phía trước đầy bão lửa nên hay ngẫm nghĩ nhiều về mẹ, thậm chí cứ thầm suy tư một nỗi mong manh, biết đâu con không về với mẹ nữa, mẹ ơi. Lớp trẻ bây giờ chắc chẳng thể nào có những phút giây nghĩ về mẹ chân thành và da diết như thế. “Chiều nay tầm tã mưa về núi/Cơn trời nào biết mẹ già nua/Gió lạnh đổ đầy vào hiên vắng/Đêm gầy than củi ấm mẹ chăng?” (Mưa chiều)...
Nhà thơ Mai Liễu và NSUT Kim Tiến trong một chuyến đi sáng tác |
Và tình yêu lứa đôi, Mai Liễu luôn cảm thông và xao xuyến. “Thấy em thức những đêm đông/Dệt tình vào vuông thổ cẩm/Tôi chẳng dám hẹn hò lại đếm/Một mùa đông.../Hai mùa đông.../Con gái đi lấy chồng/Gánh theo mấy mùa thao thức?” (Mùa bông). Hây zà, chài đa tình mà “bẽn lèn” thế.
Thơ Mai Liễu đa dạng, phong phú, song đề tài quen thuộc vẫn là miền đất vùng cao quê hương, tình người, tình đất nơi ông gắn bó. Lập nghiệp nơi thành thị xa xôi nhưng quê hương vẫn luôn là nỗi niềm khắc khoải nhớ mong trong mỗi dòng thơ Mai Liễu. “Thế mà nỗi nhớ quê hương/Cứ thăm thẳm, cứ mênh mông điệu hồn/Chim rừng bay lẻ hoàng hôn/Bè xuôi khuất bến núi còn trông theo (Nhớ Khâu Luông).
Sau lớp Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Triều Ân, là lớp Y Phương, Mai Liễu, Cao Duy Sơn, trẻ hơn chút có Dương Thuấn… Các anh, với những phong cách sáng tạo riêng, đã làm phong phú thêm những giọng điệu thơ Tày, trong rừng thơ Việt. Mỗi người một nét, góp sức làm sinh động hơn bức tranh miền cao sáng đẹp.
HPT