Trăn trở cho đổi mới giáo dục đại học Việt Nam (tiếp theo và hết)
Những bất cập về mặt số lượng và mặt chất lượng trong giáo dục đại học đã đặt ra nhu cầu phải đổi mới giáo dục đại học Việt Nam đã được chúng tôi đề cập đến ở phần đầu.
2. Ý kiến về hướng đi và các giải pháp cho đổi mới giáo dục đại học Việt Nam Dường như những vấn đề: giáo dục đại học cần được đổi mới như thế nào? Hướng đổi mới ra sao và cần được bắt đầu từ đâu? Các bước đi và các giải pháp cho việc đổi mới như thế nào?v.v. đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của các tầng lớp xã hội.
Các cơ quan quản lý các cấp, các cơ quan nghiên cứu đã tổ chức nhiều lần lấy ý kiến của các chuyên gia,của các tầng lớp nhân dân, đã tiến hành tổ chức hàng trăm cuộc hội thảo, tọa đàm đều nhằmtìm ra con đường bứt phá cho giáo dục đại học Việt Nam.
Qua các ý kiến, các nhận định,phân tích của các chuyên gia, các nhà quản lý, chúng ta càng thấy những vướng mắc, cảntrở, những thách thức đối với quá trình đổi mới giáo dục đại học nước nhà. Rất nhiều vấn đềđược nêu ra, nhiều ý kiến về các bước đi, các định hướng và các giải pháp cho việc đổi mớigiáo dục đại học đã được đề cập đến.
Tuy nhiên, qua các ý kiến chúng ta có thể thấy mọi sự quan tâm, trao đổi đều tập trung vào 2 vấn đề cơ bản, đầy bức súc: thứ nhất liên quan đếnđường lối (triết lý) và cơ chế quản lý giáo dục đại học; thứ hai liên quan tới mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng của giáo dục đại học.
Về đường lối, cơ chế cho giáo dục đại học hiện nayVề cơ bản, từ lâu nay giáo dục đại học Việt Nam vẫn được coi là lĩnh vực hoạt động vì phúc lợi xã hội, tuân theo nguyên tắc phi thương mại, không vụ lợi.
Nguyên tắc này đượcxác lập và hoạt động cả ở các trường công lập, bán công hay tư thục. Nhà nước bao cấp và kiểm soát các lĩnh vực hoạt động của các trường đại học.
Giáo dục được coi là một quyền lợi cơ bản của mọi người và bất kỳ ai, nếu xứng đáng đều có quyền tiếp cận giáo dục đại học. Quan điểm này về cơ bản phù hợp với cách nhìn nhận của tổ chức UNESCO về giáo dục đại học.
Trong bối cảnh quốc tế hóa giáo dục UNESCO có nhiệm vụ tăng cường hợp tác quốc tế giữa các nước, thúc đẩy giáo dục xuyên biên giới không nhằm mục đích lợi nhuận (thông qua hợp tác quốc tế với các dự án ODA và liên kết đào tạo).Khác với UNESCO, quan điểm cơ bản của WTO coi giáo dục là một trong 12 ngànhdịch vụ thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS; dịch vụ này cần được từng bước tự do hóa thương mại thông qua đàm phán.
Điều này cũng có nghĩa khi Việt Nam thực hiệnnhững cam kết về GATS trong lĩnh vực giáo dục đại học, thì chúng ta cần có cái nhìn khác:giáo dục đại học là một dịch vụ trong hoạt động thương mại và thương mại dịch vụ giáo dụcphải được tự do hóa.
Trong bối cảnh quốc tế hóa giáo dục, GATS hướng tới thúc đẩy giáodục xuyên biên giới nhằm mục đích lợi nhuận. Tiếp cận giáo dục đại học theo hướng này chúng ta chấp nhận sự hình thành các trường đại học-doanh nghiệp với 100% vốn đầu tư của nước ngoài và nguy cơ giảm bớt vai trò của nhà nước trong giáo dục, chấp nhận sự cạnh tranh quyết liệt giữa các trường đại học và tình trạng khó kiểm soát về chất lượng, chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong giáo dục đại học…Việt Nam cũng như nhiều nước khác hiện nay vừa là thành viên của UNESCO vừa làthành viên của WTO.
Việc cùng tồn tại cả hai cách tiếp cận: giáo dục vì lợi nhuận và giáo dục phi lợi nhuận là tất yếu. Vấn đề tìm ra mối cân bằng giữa hai cách tiếp cận này để hộinhập thành công với các nền giáo dục đại học tiên tiến của thế giới, thúc đẩy sự bứt phá củacác trường đại học là bài toán khó, tạo sự trăn trở của xã hội và được thảo luận sối nổi.
Rất nhiều ý kiến của các chuyên gia, nhiều bài viết phân tích một cách sâu sắc ở mọi góc độ về những gì giáo dục đại học đã làm được trong quá trình hội nhập, về những cơ hội,những thách thức và gợi ý những lựa chọn cần thiết đối với cách tiếp cận phù hợp nhất cho giáo dục đại học trước việc nước ta gia nhập WTO và thực hiện những cam kết về GATS trong lĩnh vực giáo dục đại học.
Nhiều phân tích về các mô hình của các nước đã cam kếtthực hiện GATS trong dịch vụ giáo dục với tư cách là nước xuất khẩu giáo dục đại học (chủyếu các nước thuộc khối OECD), hoặc với tư cách là nước nhập khẩu giáo dục như các nước đang phát triển ở châu Á, nhập khẩu có kế hoạch, chủ động như Trung Quốc, Thái Lan, hoặc nhập khẩu theo dạng các nước có thu nhập thấp ở châu Phi.
Những trường đại học lý tưởng cho du học sinhCó ý kiến phân tích và gợi ý những việc chúng ta cần phải làm để tạo ra những đặc trưng riêng biệt của thị trường giáo dục đại học Việt Nam, trong đó nhấn mạnh vai trò định hướng của nhà nước,nhằm hạn chế tối đa các mặt tiêu cực của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội trong giáodục.
Để đảm bảo giáo dục đại học Việt Nam nhanh chóng tiếp cận trình độ tiên tiến, tiếp tụctiến trình quốc tế hóa theo cả 2 cách tiếp cận: phi thương mại và thương mại, nhiều ý kiếncho rằng việc khoanh vùng các khu vực giáo dục đại học để mở cửa theo phạm vi điều chỉnhcủa GATS là sự cần thiết, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các trường đại học tư thục để có thể chiếm lĩnh thị phần giáo dục đại học trước các nhà cung ứng giáo dục nước ngoài cần được xác lập, có kế hoạch rõ ràng.
Vấn đề tăng cường hơn nữa quyền tự chủ của các trường đại học trong nước để đảm bảo sự bình đẳng trong cạnh tranh với các đại học nướcngoài ở Việt Nam cũng được nhiều ý kiến đề cập đến …Khi đề cập đến vấn đề cơ chế cho giáo dục đại học, nhiều bài viết, nhiều ý kiến kiếnnghị nhà nước cần nhanh chóng xóa bỏ cách điều hành hệ thống giáo dục đại học có phần bao cấp hoặc theo kiểu “xin - cho” và nên thay thế bằng quản lý theo chính sách và quy chế.Giáo dục đại học không thể coi như giáo dục phổ cập, không là phúc lợi công miễn phí.
Cần xác định và chuyển hoạt động giáo dục đại học từ dạng sự nghiệp công ích sang cơ chế dịchvụ phù hợp với kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo tronggiáo dục đại học cần nghiên cứu những chính sách hỗ trợ khác phù hợp hơn…Về mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng của giáo dục đại học.
Những bất cập về mặt số lượng và mặt chất lượng trong giáo dục đại học đã đặt ra nhu cầu phải đổi mới giáo dục đại học Việt Nam đã được chúng tôi đề cập đến ở phần đầu. Sự quan tâm ở đây là những trăn trở của xã hội khi giải quyết mối quan hệ giữa số lượng vàc hất lượng của giáo dục đại học trong quá trình đổi mới.
Theo dõi trên các diễn đàn về giáo dục đại học thời gian qua, chúng ta thấy có rất nhiều ý kiến đề cập tới vấn đề này cùng nhiềukiến nghị, giải pháp được đưa ra. Nhiều ý kiến chỉ ra rằng những bất cập trong mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng đều có thể tìm thấy ở mọi khía cạnh hoạt động của lĩnh vựcgiáo dục đại học.
Ví dụ việc tăng số lượng các trường đại học lên con số 600 vào năm 2010 trên cơ sở nâng cấp các trường cao đẳng ở hầu hết các tỉnh thành, đáp ứng nhu cầu củangười học, đáp ứng mục tiêu tăng tỷ lệ sinh viên trong dân số, song lại gặp phải những khó khăn trong kiểm định và đảm bảo chất lượng, sự giảm sút về chất lượng đội ngũ giáo viên,làm chậm đi quá trình hiện đại hóa cơ sở vật chất trang thiết bị trường học.
Cũng như với ý tưởng về sự tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy (vấn đề cốt lõi của chất lượng giáo dục đại học) thông qua chế độ tuyển dụng, bồi dưỡng và sử dụng lại gặp trở ngại lớn về mức tiền lương, chế độ đãi ngộ và chính sách về giá cả các dịch vụ khoa học; ngay trong vấn đề về đổi mới chương trình đào tạo theo hướng giảm tải kiến thức lý thuyết, tăng cường các kỹ năng, tăng cường các môn tự chọn, đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp về chất lượng sản phẩm đào tạo cũng gặp phải những vướng mắc ở khía cạnh tài chính, trong số lượng cán bộ đã được đào tạo ở từng ngành từng trường, số lượng các cấp phê duyệt và kiểm tra, giám sát chương trình.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâmlà phương thức cần thiết nâng cao chất lượng đào tạo gặp trở ngại ngay trong lượng kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy, mức học phí của sinh viên và tiền lươngcủa giáo viên…
Đã có rất nhiều phân tích sâu sắc của các chuyên gia ở các khía cạnh khác nhau trongmối quan hệ giữa số lượng và chất lượng của giáo dục đại học và cũng đã có nhiều ý kiến bày tỏ sự băn khoăn về các giải pháp đang được thực thi cho việc giải quyết mối quan hệ này theo hướng vừa tăng cường về số lượng vừa nâng cao về chất lượng, hoặc đưa ra các kiến nghị về các giải pháp để giáo dục đại học Việt Nam nhanh chóng tiếp cận trình độ giáo dục đại học tiên tiến của khu vực và thế giới.
Những phân tích về các giải pháp liên quan đến chế độ đầu tư, tăng cường quyền tự chủ của các trường đại học, xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cơ chế bao cấp, thúc đẩy quá trình xã hội hóa giáo dục đại học, tăng cường công tác kiểm định và đảm bảo chất lượng… thường được xem xét như cơ sở quan trọng cho giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng của giáo dục đại học.
Rất nhiều giải pháp được phân tích theo các khía cạnh khác nhau của giáo dục đại học liên quan đến chế độ bồi dưỡng, bổ nhiệm và sử dụng đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý giáo dục, phong học hàm, học vị…, liên quan đến cải cách chính sách, chế độ đãi ngộ, chế độ học phí, chế độ thi cử, tuyển sinh…, liên quan đến đổi mới chương trình, mục tiêu và phương pháp giảng dạy…, liên quan đến sử dụng đội ngũ giáo sư nước ngoài, xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế…, và cả những phân tích về giải pháp đối với người học, đối với việc học ngoại ngữ đều được xem xét trên cơ sở những đề xuất cho phát triển giáo dục đại học Việt Nam cả ở khía cạnh số lượng và chất lượng.
Yale University.
Có lẽ chưa bao giờ giáo dục đại học Việt Nam đứng trước những thách thức, nhữngcơ hội và có vai trò lớn như thế. Có lẽ chưa bao giờ nhu cầu về sự đổi mới của giáo dục đạihọc lại cần thiết đến như vậy và có lẽ cũng chưa bao giờ việc đổi mới giáo dục đại học lạinhận được sự quan tâm, sự trăn trở của xã hội đến mức đó.
Những suy tư, những ý tưởngđược thể hiên qua các góp ý, các phản biện xã hội chắc chắn sẽ giúp giáo dục đại học Việt Nam phát triển để hoàn thành cả 2 mục tiêu đồng thời là cung cấp nguồn nhân lực, một mặt đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế xã hội của đất nước, một mặt đủ trình độ, trithức để hòa nhập với thế giới, biết nắm bắt và vận dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ tiến tiến vào thực tế Việt Nam.