Nhà báo Võ Nguyên Giáp
Chỉ còn vài ngày nữa là tròn 5 năm ông đi xa, tôi viết bài này từ năm ông 90 tuổi xin đăng lại cũng là để nhớ về ông
|
Xưa nay mọi người vẫn biết ông là Đại tướng, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, người đã cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ huy quân và dân ta trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh: chống Pháp và chống Mỹ giành thắng lợi hoàn toàn. Trong chiến tranh, lúc nào cần chậm thì ông quyết chậm, như trận Điện Biên Phủ, khi thấy địch đã có công sự vững chắc ông đã chuyển quyết tâm đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, thắng chắc. Nhưng khi cần nhanh, như Chiến dịch mùa xuân năm 1975, ông chỉ đạo: “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa...”. Ông trở thành vị tướng vĩ đại một phần chính là ở những quyết định mang tầm chiến lược đó. Nhưng, ít ai biết vị Đại tướng còn là một nhà báo ưu tú, một trong những nhà báo đầu tiên được tặng thưởng Huy chương “Vì sự nghiệp báo chí” của Hội Nhà báo Việt Nam. Đối với ông, làm báo không chỉ là niềm say mê từ thời trai trẻ mà đó cũng là một thứ vũ khí, là phương tiện hữu hiệu để hoạt động cách mạng.
Tham gia cách mạng từ rất sớm, thuở còn là học sinh trường Quốc học Huế, ông đã hăng hái tham gia phong trào đòi trả tự do cho cụ Phan Bội Châu và lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Cứ chiều thứ năm, ông cùng các bạn học sinh trường Quốc học Huế, trường Đồng Khánh kéo nhau lên Bến Ngự nghe cụ Phan nói chuyện và thường bí mật tìm đọc sách báo yêu nước, sách báo cách mạng. Ngay từ khi học ở trường Quốc học Huế ông đã ghi chép các bài báo, bài thơ yêu thích vào sổ tay. Những bài báo công kích chế độ thống trị của bọn thực dân viết bằng tiếng Pháp trên báo An Nam Mới của Phan Văn Trường, những bài báo ca ngợi tinh thần yêu nước của vua Thành Thái, vua Duy Tân, sách báo nói về cách mạng các nước đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với ông và những bài thơ kêu gọi đồng bào thức tỉnh, cùng nhau hợp quần tranh đấu để thoát khỏi cảnh nhục mất nước của cụ Phan, càng thôi thúc ông hăng hái tham gia các hoạt động yêu nước.
Ở nhà trọ, ông và các đồng chí Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều... thành lập một nhóm hoạt động kiểu như câu lạc bộ, tìm đọc các tờ báo bí mật. Các tờ Việt Nam Hồn, Người cùng khổ (Le Paria) và các cuốn sách nhỏ ABC về chủ nghĩa Mác luôn được ông và các thành viên câu lạc bộ chuyền tay nhau đọc. Trong không khí sôi nổi của phong trào chống thực dân Pháp, ông đã nung nấu ý nghĩ phải viết báo để lên án tội ác của chế độ, tuyên truyền cách mạng và khơi dậy tinh thần chống Pháp trong nhân dân. Đã nghĩ là làm, bài báo đầu tiên của ông viết bằng tiếng Pháp với nhan đề “Đả đảo tên độc tài nhỏ” đăng trên báo An Nam Mới với nội dung phản đối lối dạy học ngu dân của chính phủ bảo hộ.
Năm 1929 ông được giới thiệu làm biên tập viên tờ Tiếng Dân do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ bút. Thời kỳ này, như rồng gặp mây, ông thử sức trên đủ các thể loại: tin tức, bình luận kinh tế, bình luận chính trị..., chuyên trách mục Thế Giới Thời đàm với bút danh Vân Đình và một số bút danh khác. Mặc dù còn rất trẻ và mới bắt đầu làm báo nhưng ông đã có nhiều bài viết khá sắc sảo. Nhân đọc cuốn Annuai statitque (Niên giám thống kê), ông đã viết bài nghiên cứu kinh tế với tựa đề “29 công ty tư bản có vốn trên một triệu đồng”, đề cập đến thực trạng tất cả các công ty đều là của bọn thực dân, duy nhất có một công ty là của người Việt, các công ty của Pháp bóc lột nhân dân lao động thậm tệ và chèn ép tư sản dân tộc Việt Nam. Bài báo sắc sảo này bị bọn kiểm duyệt xoá không còn một chữ. Để tỏ thái độ phản đối chế độ kiểm duyệt nhằm bưng bít thông tin của thực dân Pháp, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã cho in bài báo chỉ với cái tựa đề, còn mấy cột báo để trắng!
Tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và đạo đức trong sáng, tính cách cương trực, khí tiết đại trượng phu của cụ Huỳnh đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của ông, cả cách làm báo, cách sống và lòng yêu nước thương dân. Sau này, khi cụ Huỳnh được cách mạng mời ra làm Phó Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ, ông lại có dịp sát cánh với cụ Huỳnh, đặc biệt trong thời gian chèo lái con thuyền cách mạng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” khi Bác Hồ sang thăm nước Pháp năm 1946.
Thời kỳ Mặt trận bình dân lên cầm quyền ở Pháp, ở trong nước, Đảng đã thành lập Mặt trận dân chủ, ông ra Hà Nội hoạt động. Những năm 1935, 1936, ông vừa dạy học ở trường tư thục Thăng Long vừa tham gia tuyên truyền vận động cách mạng trong giới học sinh, sinh viên. Ông đã cùng một số giáo viên yêu nước xuất bản tờ Hồn Trẻ, tờ báo cách mạng công khai đầu tiên bằng tiếng Việt tại Hà Nội. Tờ báo này nguyên là tiếng nói của hướng đạo sinh được chuyển thể mới. Báo mới ra được 5 số thì bị đình bản, cấm lưu hành.
Những năm 30 của thế kỷ XX, báo tiếng Việt phải xin phép rất khó khăn nhưng báo tiếng Pháp chỉ cần đăng ký là được xuất bản. Lợi dụng thực tế đó, ông cùng Nguyễn Thế Rục, một đảng viên cộng sản được cử đi học trường Đại học Phương Đông nhưng vì bị bệnh lao rất nặng nên phải trở về nước, cho ra tờ báo tiếng Pháp Le Travail (Lao động) để hợp thức tuyên truyền tinh thần dân tộc, và hợp tác với ông Trần Huy Liệu xuất bản tờ Sống. Khi đồng chí Trường Chinh được ra tù và chủ trì “Ban hoạt động nửa hợp pháp”, ông đã trở thành một thành viên hoạt động tích cực của Ban. Thời gian này ông vừa dạy học, vừa vận động quần chúng, vừa làm báo. Ông không chỉ viết bài cho hầu hết các tờ báo tiếng Pháp của Đảng xuất bản ở Hà Nội như Le Travail; Notre Voix; EnAvant..., ông còn viết bài cho các báo tiếng Việt như Tin tức, Đời Nay. Ông vẫn trung thành với các thể loại sở trường là bình luận chính trị, các bài phản ánh tình hình kinh tế, xã hội, và vẫn duy trì chuyên mục Thế Giới Thời đàm cho các báo, vừa viết bài, vừa xuống nhà in theo dõi việc in ấn, sửa chữa bản bông...
Địa bàn hoạt động của ông rất rộng, không chỉ ở quanh Hà Nội mà vươn ra các tỉnh xa. Có lần ông đạp xe từ Hà Nội sang Quảng Ninh viết bài về cuộc tổng đình công của hai vạn công nhân mỏ than. Trong những chuyến đi “thực tế” đó ông thường tranh thủ gặp gỡ Hội ái hữu, Hội phụ nữ... để tuyên truyền vận động cách mạng và lấy tư liệu viết bài. Chính thời gian này, bằng vốn sống tích lũy trong những năm tích cực hoạt động, ông đã cùng đồng chí Trường Chinh viết cuốn Dân cày, một tác phẩm rất nổi tiếng thời đó. Trong phong trào Đông dương đại hội, ông đã cùng các đồng chí tổ chức đại hội báo chí Bắc Kỳ để thực hiện chính sách mặt trận rộng rãi trong báo giới. Tại hội nghị ngày 24/4/1937 ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí, ông Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch.
Năm 1939, chiến tranh thế giới sắp bùng nổ, nhiều cán bộ đảng bị lộ phải rút vào hoạt động bí mật, ông và đồng chí Phạm Văn Đồng được tổ chức bí mật đưa sang Tĩnh Tây, Côn Minh (Trung Quốc) gặp nhà cách mạng Nguyễn ái Quốc và sau đó cùng Bác trở về Cao - Bắc - Lạng hoạt động, vận động quần chúng, chuẩn bị điều kiện để khởi nghĩa vũ trang. ở Cao Bằng, mặc dù cơ sở vật chất thiếu thốn nhưng Bác Hồ đã cùng các đồng chí nhanh chóng xuất bản tờ Việt Nam Độc Lập, ông cũng đó tích cực viết bài cho tờ báo. Tờ Việt Nam Độc Lập in trên đá bằng giấy bản đó có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào cách mạng trong những năm tiền khởi nghĩa.
Để cổ vũ cho phong trào Việt Minh, Bác Hồ đã viết “10 chính sách Việt Minh” bằng thể thơ lục bát đăng trên báo. Ngày ấy, ông được Bác phân công tổ chức, tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc tham gia cách mạng ở các vùng Hoà An, Nguyên Bình... Qua thực tế hoạt động gần dân, ông đã chuyển thể tác phẩm “10 chính sách Việt Minh” của Bác thành thể thơ năm chữ với tên “Việt Minh ngũ tự kinh” bằng tiếng Việt, cho đăng trên báo Việt Nam Độc Lập, sau đó dịch ra tiếng Tày, tiếng Dao, tiếng Mông, in làm tài liệu tuyên truyền. Vì được dịch ra các thứ tiếng của đồng bào vùng cao nên tác phẩm có tác dụng tuyên truyền rất lớn, nhiều người, cả các ông bà già đến trẻ em vùng Cao - Bắc - Lạng, đều thuộc lòng “Việt Minh ngũ tự kinh”.
Những năm ấy, ở miền xuôi có tờ Cứu Quốc nhưng do hoàn cảnh bí mật không được phổ biến rộng rãi như tờ Việt Nam độc Lập ở Cao - Bắc - Lạng, vì thế ông tập trung viết cho tờ Việt Nam độc Lập. Là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ học được ở Người tinh thần, ý chí và lý luận cách mạng mà còn học được ở Người cách làm báo cho quần chúng và cách sử dụng báo chí để tuyên truyền vận động quần chúng...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân Đặng thị Bích Hà |
Ông nhớ lại: Bác Hồ rất coi trọng công tác báo chí, khi huấn luyện, Bác dặn chúng tôi: “Báo chí là người tổ chức quần chúng làm cách mạng”. Anh Phạm Văn Đồng và tôi đều làm báo từ năm 1930, nhất là thời kỳ Mặt trận bình dân, nhưng khi đưa cho Bác xem tờ Tiếng Suối reo chúng tôi làm ở Tĩnh Tây, các bài đều dài vì sợ độc giả không hiểu, cứ phải luận giải, Bác phê bình: “Báo này để cho các chú đọc, vì chỉ có các chú mới hiểu”. Chúng tôi vô cùng thấm thía.
Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, Đảng và Chính phủ trở về Hà Nội trong bối cảnh thù trong, giặc ngoài với bao nhiêu công việc bề bộn nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã góp sức cùng các đồng chí nhanh chóng xuất bản tờ Sự Thật - tiền thân của báo Nhân Dân, tờ Vệ Quốc Quân - tiền thân báo Quân đội Nhân Dân và nhiều tờ báo khác. Mặc dù bận rộn với bao công việc của cách mạng, ông vẫn tham gia viết bài cho báo đảng, báo quân đội, viết các bài tổng kết lý luận cho các tạp chí lý luận. Không chỉ tham gia viết báo, ông còn tổ chức quản lý báo chí. Năm 1946 khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, mặc dù giữ nhiều trọng trách với rất nhiều công việc bề bộn trong những ngày đầu cùng nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến, ông vẫn chỉ đạo các chiến khu xuất bản báo để kịp thời tuyên truyền cổ động bộ đội và dân quân như tờ Chiến khu của chiến khu I; tờ Xông Pha của chiến khu II; tờ Quân Bạch Đằng của chiến khu III...
Sau khi nước nhà độc lập, thống nhất, hoà bình lập lại, được Đảng, nhà nước phân công phụ trách vấn đề khoa học và giáo dục, ông đã viết khá nhiều bài nghiên cứu về cỏc vấn đề này. Từ những bài viết về cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật ở nước ta đến những bài viết về chính sách giáo dục, đào tạo con người mới, chiến lược nông nghiệp, lâm nghiệp, chiến lược biển, chiến lược môi trường, những vấn đề về khoa học và công nghệ, kinh tế biển... Ở lĩnh vực nào ông cũng có những nhận định, phân tích, đánh giá nhạy bén và sắc sảo mang tầm chiến lược. Những năm được Đảng phân công theo dõi tổng kết vấn đề quân sự và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, ông đã viết những bài báo khoa học về tư tưởng của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, về kinh nghiệm đấu tranh vũ trang của nhân dân, về học thuyết quân sự thời đại Hồ Chí Minh, đăng trên các tờ báo, tạp chí lý luận của Đảng. Bài viết của ông đã được lựa chọn, tập hợp thành những cuốn sách có giá trị tổng kết cao, đó là những cuốn: “Chiến tranh giải phóng và quân đội nhân dân - ba giai đoạn chiến lược”; “Điện Biên Phủ”; “Mấy vấn đề đường lối quân sự của đảng ta”; “Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc”; “Trận đánh 30 năm”; “Thế giới đổi thay, tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi”; “ Tư tưởng Hồ chí Minh và con đường cách mạng Việt nam”; “Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”; “Cả nước một lòng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”...
Được hỏi về kinh nghiệm làm báo, ông tâm sự: - Đối với tôi, Bác Hồ luôn là tấm gương để học tập. Bác từng nói: “Cầm bút viết thì nên đặt câu hỏi: viết cho ai? Viết để làm gì?”. Câu hỏi đơn giản nhưng thật đầy đủ và sâu sắc. Bác thường viết ngắn gọn, dễ hiểu, súc tích, gần gũi với cuộc sống. Cách đặt vấn đề đơn giảm mà rành mạch của Bác mãi mãi là tư tưởng chỉ đạo cho giới báo chí Việt Nam.
103 tuổi đời, gần 90 năm gắn bó với cách mạng Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị tướng tài ba của quân đội nhân dân Việt Nam, ở mọi thời điểm lịch sử đều hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao. Không chỉ là nhà chính trị, nhà quân sự xuất chúng, ông còn là nhà giáo, nhà báo, nhà văn hoá ưu tú của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Cố Thượng tướng Trần Văn Trà đã nhận định về ông như sau: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là chính uỷ của các chính uỷ, là tư lệnh của các tư lệnh, là tướng của các tướng, gương mặt sáng ngời của nền văn hoá Việt Nam”. Có lẽ không còn cách đánh giá nào chính xác và đúng đắn hơn.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mãi mãi đi xa nhưng sự nghiệp, công lao, đạo đức của Người sống mãi với non sông Việt Nam. Không chỉ dân tộc Việt Nam yêu kinh tiếc thương mà bạn bè trên thế giới đều tiếc thương và tôn vinh ông là một trong những danh tướng vĩ đại nhất của nhân loại.
Và, ông còn là nhà báo được vinh danh trong làng báo chí Việt Nam./.