Chuyện bí hiểm về một “Béc - mu - đa” của Việt Nam - Xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La:
Kỳ 2: Gặp người “có duyên trời định” về tìm kiếm máy bay gặp tai nạn ở “Béc - Mu - Đa” Tây Bắc
Tây Bắc mùa Hè nóng nực, đất đai trở lên khô khốc. Những nương ngô muộn cũng đang vàng hoe lá và thân, sắp được người dân thu hoạch gùi về để làm cái ăn, cái đốt cho mùa Đông tới. Trong cái âm u ấy, chúng tôi đã may mắn được gặp người “có duyên trời định” với các vụ tìm kiếm máy bay rơi ở khu vực “Béc - Mu - Đa” trên vùng Tây Bắc này.
Đi tìm người đàn ông bí ẩn
Lên Tây Bắc vào những mùa này, người ta được chứng kiến những khung cảnh hết sức liêu trai. Sáng, mở mắt ra vẫn gặp sương mù loang ra đặc xịt, làm người ta mất hết sự “định vị” với những cảnh vật đã thấy hôm qua. Mơ - thực là những cảm nhận hết sức dễ có với bất cứ một người khách lạ nào lên đây.
Buổi sáng, mây mù kéo đến, có cảm giác như thể véo được. Nhiều chỗ cao, quẩn gió, nhất là những con đường cheo leo vắt qua những thung núi thì sương mù còn tạo ra mưa, quất ràn rạt vào những ai có công việc gì đó phải đi sớm.
Cảnh mây mù, sương và gió khác biệt, lạ kỳ trên vùng đất Xím Vàng |
Đến buổi trưa, ánh nắng xuyên thấu, trời quang đãng trong giây lát rồi lại nhanh chóng nhường chỗ cho mây và sương. Buổi tối, chỉ cần qua khắc 19 giờ, nếu chạy qua các cung đường hiểm, thì ánh sáng của đèn pha chỉ đủ soi sáng với tầm nhìn khoảng 03 - 04m trước mặt. Với sự khắc nghiệt này, chỉ có những tay lái “phố núi” mới dám vượt dốc, vượt đèo mà thực hiện những chặng đi của mình.
Thị trấn Bắc Yên, phố xá chỉ con lại ít cột đèn cao áp loi nhoi với những ánh sáng đỏ hắt xuống những hè đường bụi bặm. Vì là những vị khách bất thường cuối ngày của thị trấn này, nên việc đi tìm cái ăn của chúng tôi đã trờ thành sự kỳ công, vất vả thực sự. Xuôi mãi con dốc, qua chiếc cửa hàng mậu dịch cũ mèm của thời bao cấp, theo về hướng Phù Yên, đến khi gần hết ánh đèn, chúng tôi mới tìm được một quán ăn còn sáng đèn, cùng chiếc bếp đã hết củi. Nói khó mãi, ông chủ quán mới đồng ý nấu cho chúng tôi hai bát mỳ tôm trứng với cái gọi là thông cảm cho người lỡ độ đường.
Mới đầu, tưởng chúng tôi là dân đánh quả lẻ một thứ hàng quốc cấm, mà ma túy luôn được nghĩ đến trong sự ngờ vực đầu tiên, nên ông chủ quán cũng kiệm lời. Sau đó, chắc thấy chúng tôi là người tử tế và đoán chắc là người đi công việc, về phố núi muộn thực sự, ông chủ đã trở nên sởi lởi hơn. Khi chúng tôi bảo là người nơi xa, muốn tìm lên khu vực “Béc – Mu – Đa” Xím Vàng để tìm lấy ít tài liệu thì ông chủ đã cởi mở hẳn.
Không những lấy thêm cơm nguội cho chúng tôi “tăng cường” với bát mì tôm lõng bõng mà ông chủ còn bộc bạch cho biết do có cái “núi hút máy bay” này mà dân chúng tôi từ trẻ con với người lớn mới biết cái máy bay nó hạ, nó đỗ, nó kêu, cánh nó quạt như thế nào… Vì cứ có tai nạn là có máy bay lên. Và khi thấy máy bay lên, thì biết là có tai nạn.
Và cũng nhờ sự dễ dãi này, mà chúng tôi đã may mắn biết đến nhân vật có tên là Đoàn Đình Khiêu. Ông chủ quán bảo, muốn biết máy bay rơi thế nào, rơi bao nhiêu, hành trình tìm kiếm ra sao các anh cứ tìm đến ông “Khiêu hài cốt” là biết tất.
Đêm buồn Bắc Yên cũng mau chóng qua vì chúng tôi đã may mắn tìm được con người đặc biệt của đất này. Sáng ra, “vén mây”, “vén sương” chúng tôi đi tìm ông “Khiêu hài cốt” theo địa chỉ đã cho của ông chủ quán. Tới Khu I của thị trấn Bắc Yên, chúng tôi đã tìm được “dị nhân” này.
Hóa ra không như chúng tôi hình dung và không giống như cái tên “Khiêu hài cốt” mà thiên hạ đã gọi ông, trái lại ông Khiêu là một người đàn ông lực lưỡng và có tướng mạo. Ngoài khuôn hình chắc nịch thì ông Khiêu còn gây ấn tượng với mọi người bằng một bộ râu quai nón rậm um.
Nghe chúng tôi hỏi, ông Khiêu cười, giải thích: “Họ gọi tôi như vậy là bởi cái nghề tôi đang làm...” Không những chỉ đi tìm hài cốt và thi thể của các vụ tai nạn máy bay, mà ông Khiêu còn là một trong những người duy nhất làm nghề… bốc mộ tại đây.
Công dân đầu tiên ở Tây Bắc được… đi máy bay
Ông Khiêu quê gốc ở mãi tận dưới Nam Định. Hành trình có mặt ở Tây Bắc và lấy Bắc Yên làm nơi cư ngụ của ông là cả một chuyện dài. Ban đầu là bạn rủ, sau đó tìm đến kiếm ăn. Rồi thời Tây Bắc còn hoang vắng, vì là người có chữ, nhanh nhẹn nên ông đã được tuyển vào làm cán bộ của huyện, bên ngành thương nghiệp.
Năm 20 tuổi lên đây và đến nay ông đã có ngót 50 năm “đánh bạn” với phố núi buồn hiu này. Ngày ấy, thuốc phiện chưa bị cấm, Tây Bắc nói chung và Bắc Yên nói riêng loại cây này được trồng khắp nơi. Mùa thuốc phiện ra hoa, toàn vùng Bắc Yên như được trải chăn hoa từ đèo Sam Xít - vùng đất giáp Mường La đến tận Hồng Ngài. Ngày này, công việc chính của anh nhân viên trẻ Đoàn Đình Khiêu là… thu mua thuốc phiện.
|
Ông Khiêu bảo, thuốc phiện hồi ấy đã đem lại cho dân nhiều hệ lụy buồn lắm. Vì sẵn thuốc phiện nên dân nghiện hút la liệt. Trẻ hút, già hút, gái hút, trai hút. Thương nhất của sự nghiện ngập này là bủa vây những đứa trẻ. Nhiều đứa trẻ đến trường, nghiện rồi đem thuốc phiện theo. Lúc cơn vật thuốc đến, chúng ra ngay ngoài hành lang lớp học nhóm lửa để nướng và dùng điếu tự chế để hút rồi lại vào lớp.
Ông Khiêu kể: Thuốc vào là cơn buồn ngủ đến. Ngáp ngắn, ngáp dài rồi gục xuống bàn rồi chả học được nữa. Khi ông vào nhiều nhà dân, vợ chồng con cái đều “chân co, chân duỗi” hết. Cả chục cái miệng trong nhà suốt ngày nhả khói, nên đến thạch sùng cũng… nghiện. Nhiều nhà, đến mùa lên nương lấy thuốc, làm lán trại ở luôn đó không về. Nhà thiếu người, thiếu khói thuốc nên thạch sùng cũng… vật. Đói thuốc, chúng rơi cả đám, kín đen cả sàn nhà. Người đến chả muốn chạy và cũng chả muốn bò đi để kiếm cái ăn nữa!
Là nhân viên đi mua và thu thuế thuốc phiện của huyện nên bàn chân thời trai trẻ của ông đã “giẫm nát” các xã, các thôn của huyện Bắc Yên. Đi đường nào ngắn nhất, dễ nhất, ở đâu có suối, có khe, nằm mê ngủ, ông cũng rành mạch kể được. Ông Khiêu bảo, cái duyên cớ để ông đến với nghề cải táng mộ bắt đầu từ năm từ năm 1990.
Sau khi Chính phủ cấm trồng thuốc phiện, thuốc phiện hết, không có vệc, ông Khiêu nằm dài ở nhà. Đang mông lung kiếm một việc gì đó để làm, thì bỗng huyện cho người gọi ông lên. Tưởng có việc làm mới, nhưng không ngờ ông lại đươc thông báo là có một đoàn cứu hộ lên tìm máy bay rơi. Họ cần người thông thạo địa hình và biết tiếng dân tộc.
Lãnh đạo huyện cân nhắc mãi và cuối cùng đã nhớ đến ông. Ngoài một nhiệm vụ đột xuất, hơn nữa “nghĩa tử là nghĩa tận”, không nề hà, ông Khiêu nhận việc ngay. Đợt đi này, ngoài 3 triệu tiền công được trả thì ông là người đầu tiên và duy nhất ở Bắc Yên này được bước lên máy bay để theo đoàn.
Gian nan đi tìm “chim sắt”
Ông Khiêu kể: Đây là đợt đi tìm máy bay rơi đầu tiên mà ông được tham gia. Đồng thời, đây cũng là hành trình gian nan nhất.
Ngoài chiếc máy bay chở những nhân vật quan trọng tham gia việc tìm kiếm, lãnh đạo huyện Bắc Yên cũng đã huy động bộ đội, dân quân tự vệ và thanh niên lên đường trợ giúp.
Để mang vác vật liệu và lương thực cho quá trình tìm kiếm dài ngày và gian nan này, 15 con ngựa cũng đã được huy động vào việc gùi hàng và gùi nước. Phía trên xã Xím Vàng, một sân bay dã chiến cũng đã được thiết lập. Khoảng 1ha rừng tại nơi được coi là gần điểm máy bay bị tai nạn cũng đã được phát quang và san bằng để lấy chỗ cho máy bay đỗ. Vì không xác định được cụ thể vị trí máy bay rơi, đồng thời đây cũng là khu vực ít dân cư, nên việc tìm kiếm ban đầu xác định lấy sự nhiệt tình, lấy nghĩa tử, nghĩa tận của con người ra làm nguồn động lực chính.
Xím Vàng vào những ngày mùa Đông này âm u lắm, thời gian chiếc máy bay gặp nạn cũng là lúc vào mùa Đông, nên việc tìm kiếm của tất cả mọi người hết sức cực khổ. Ông Khiêu kể: Để tìm được chiếc máy bay, các ông và những người trong đoàn cứu hộ cứ phải phát rừng tạo đường mà đi với bao ẩn họa rình rập. Vắt xanh từng đàn bỏ cây, bỏ lá rơi như mưa lên áo, lên quần, bám xanh cả ống chân. Muỗi bay như ong, đốt người để hút máu. Lại có rắn rết luôn thường trực đe dọa con người nữa.
Lương thực đem theo nhanh chóng cạn kiệt. Nước uống là thứ thiếu thốn nhất ở miền đất này trong những mùa khô. Để có nước uống, nhiều lúc đoàn cứu hộ đã phải chặt chuối, rồi khoét sâu xuống như cái nồi để nước thẩm thấu ra để dùng. Ngoài nước, cái rét cũng là điều cực khổ đối với những người đi tìm máy bay rơi. Tuy quần áo và đồ dùng đã được khuyến cáo mang theo, nhưng ở những sườn non, cao so với mực nước biển trên cả ngàn mét, gió rét cứ thông thốc thổi. Rét mướt làm mọi người mất ngủ cả đêm.
Sau những chuỗi ngày gian nan ấy, được sự trợ sức của những người nguyên là phi công và những người thuộc không quân có kinh nghiệm, nên phương án tìm máy bay theo kế hoạch “răng bừa” cũng đã được đưa ra. Tìm kiếm theo kiểu rích rắc và tìm theo kinh nghiệm phân tích mọi phương án thực tế xảy ra và xử lý tình huống khi máy bay gặp nạn. Nhờ có việc phối hợp giữa chuyên môn của ngành và kinh nghiệm nghề nghiệp thực tế đã giúp đoàn tìm ra được vị trí máy bay rơi.
Ông Khiêu chia sẻ: Đây là chuyến đi đầu tiên và là vụ tìm kiếm, cứu nạn ám ảnh nhất trong cuộc đời ông. Ngoài sự vất vả, gian truân và tốn kém về thời gian thì còn là sự bi thương khi chứng kiến cảnh máy bay rơi. Chiếc máy bay bị rơi này thuộc loại máy bay dịch vụ nhỏ, chuyên chở 05 người. Hình như máy bay đã bị nổ trước khi rơi xuống đất, nên xác mỗi người văng một nơi.
Gặp cảnh ấy, ai cũng chùn tay và ai cũng phải chảy nước mắt vì thương cảm. Do ngày tìm thấy chiếc máy bay cách xa ngày tai nạn xảy ra, hơn nữa, do áp lực nổ và sự cháy của động cơ, nên hầu như thi thể của nạn nhân đều bị biến dạng, không còn lành lặn. Không nề hà, cộng với tính cách vốn có, lại thêm sự rèn luyện lâu năm ở miền núi này, nên ông Khiêu đã nhanh chóng thực hiện công việc.
Tuy, ban đầu, chỉ là người có chức năng dẫn đường, nhưng trước tình huống bất ngờ và sự thương cảm đối với các nạn nhân, ông Khiêu đã nhanh chóng đảm nhận thêm việc tắm rửa và thay quần áo cho các nạn nhân. Và không hiểu sao, cứ như là “duyên trời phú”, “trời ban”, tuy là lần đầu tiên làm việc này, nhưng ông Khiêu đã làm rất thành thạo đến mức thuần thục.
Lấy fóc môn mà đoàn mang theo, ông lau rửa kỹ càng cho các nạn nhân. Rồi, ông khâm niệm và lấy vải bọc thi thể cho những nạn nhân xấu số. Ông Khiêu nói: Khí hậu Tây Bắc, đặc biệt là khu vực Xím Vàng này hết sức lạ kỳ. Trời đang nắng đấy, nhưng thoáng cái mây sương đã ùn ùn kéo đến. Chỉ thoáng trong tích tắc mà người đứng đối diện đã không nhìn thấy mặt nhau.
Ngoài sương, mây thì nơi này còn sợ nhất là gió. Trời đang yên lặng đấy, nhưng chớp mắt một cái cũng đã có gió và gió thổi mạnh ngay. Theo phân tích, thì ngoài vấn đề đặc biệt về từ trường, thì mây và gió ở đây chuyển đổi theo kiểu bất thường này cũng là một trong những nguyên nhân gây tai nạn dễ dàng cho các chuyến bay.
Ông Khiêu kể tiếp: Sau khi mọi việc hoàn tất, việc vận chuyển 05 thi hài về sân vận động thị trấn Bắc Yên cũng là việc hết sức khó khăn. Vì địa hình không cho phép các loại trực thăng có vận tải lớn đỗ xuống, nên việc cứu hộ và đưa thi hài phải dùng loại máy bay nhẹ và nhỏ. Nhưng nghiệt nỗi, loại máy bay đáp ứng được yêu cầu này lại chỉ chở được 3 người, ngoài người lái, hoa tiêu thì chỉ chở thêm được một thi thể.
Chuyến đầu tiên chở thi thể đã làm cho mọi người thót tim. Vì thi thể vừa được chuyển lên, máy bay vừa tăng vận tốc cánh quạt để bốc mình lên khỏi mặt đất, thì gió và sương mù đã bất chợt ùa đến. Chiếc máy bay tròng trành trong cả chục phút, nghiêng ngả mãi mới cất mình lên nổi.
|
Sau chuyến bay đầu tiên này, từ sự cảnh báo của những người nguyên là sỹ quan không quân đi cùng, thì việc vận chuyển thi thể người gặp nạn bắt buộc phải dừng lại. Vì nếu cố và mạo hiểm, thì hậu quả khó lường sẽ có nguy cơ xảy ra. Đêm hôm ấy là đêm dài nhất trong đời mà ông Khiêu đã được chứng kiến.
Cả đêm, đoàn cứu hộ với 04 thi thể cùng nhau ở lại trên miền rừng hoang vu. Vừa sợ hãi, vừa cô đơn, vừa bi lụy là những cảm giác ông không thể quên được. Sau đó, bằng tất cả những sự cố gắng, thi thể cuối cùng của người tử nạn trong vụ rơi máy bay này cũng đã được chuyển về sân vận động Bắc Yên một cách an toàn. Tiếp đó, với sự tiếp viện của ngành vận tải hàng không, những thi hài xấu số này đã được đưa tiếp từ Bắc Yên về Hà Nội và được trở về với những thân nhân của mình.
Người “làm nghề tay trái”
Sau đợt tham gia đầu tiên ấy, nói chính xác hơn là bị phân công một cách đột xuất vào cái nghề hết sức lạ lẫm này, ông Khiêu đã có thêm một nghề nữa: Nghề tìm kiếm và cứu nạn máy bay rơi ở khu vực “Béc - Mu - Đa” Việt Nam, ở xã Xím Vàng này. Sau lần đầu tiên “vào nghề” đầy nghiệt ngã và đầy ám ảnh này, mỗi khi có máy bay rơi, người đầu tiên người ta tìm đến nhờ cậy đó chính là ông Đoàn Đình Khiêu. Ông Khiêu kể, ngoài đợt tìm kiếm và cứu hộ lần đầu này, đời ông còn bị ám ảnh một lần nữa ấy là khi đi tìm kiếm một chiếc máy bay quân sự bị tử nạn.
Đợt tìm kiếm này, ngoài vất vả, bỏ công, bỏ sức, thì cả đoàn tìm kiếm sẽ khó có thể hoàn thành được, nếu không lấy “nghĩa tử, nghĩa tận” giữa người sống và người chết để làm động lực cố gắng. Ông Khiêu cho biết: Vụ tai nạn này cũng vô cùng tang thương. Hai sỹ quan quân đội ấy cũng mất tích bí hiểm cùng chiếc máy bay trong một lần bay. Và địa điểm mất tích ấy cũng được xác định ở khu vực Xím Vàng.
Vì thời gian từ khi tai nạn máy bay xảy ra đến khi đoàn tìm kếm được quá dài, nên thi thể của họ đang bắt đầu bị phân hủy. Ông Khiêu và những người trong đoàn đã vừa quyệt nước mắt cho sự thương cảm và vừa làm vệ sinh cũng như khâm niệm cho họ.
Từ việc tìm kiếm cứu hộ máy bay gặp tai nạn, “hữu xạ tự nhiên hương”, nhiều người cứ ngỡ ông Khiêu là người có tài và có duyên với cái nghiệp này. Và do tập quán cải táng mộ của nhiều người Việt, họ đã đến nhờ ông Khiêu đến để “sang cát”, “thay áo” cho những người thân của mình.
Tuy không xác định lấy nghề này để kiếm sống, nhưng trước sự nhờ vả của người dân xung quanh, lại vì cái “nghĩa tử là nghĩa tận” nên ông Khiêu đã không dám từ chối. Và từ cái nghề là anh nhân viên ngành thương nghiệp, rồi đến anh cán bộ đi thu thuế thuốc phiện, thì nay ông Khiêu đã trở thành người đàn ông “giỏi” với nghề bốc hài cốt. Với thù lao được người đời trả, ông tạm thời coi đây là cái nghiệp “trời bắt phải làm” và coi nó như nghề tay trái của mình trong tao đoạn của một đời người!
Phóng viên